MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

line
02 tháng 04 năm 2024

Tóm tắt

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, ngành du lịch của nước ta đang có rất nhiều cơ hội phát triển. Để nắm bắt cơ hội đó, một trong những khâu then chốt chính là phát triển nguồn nhân lực. Thực trạng phổ biến là chất lượng lao động trong ngành du lịch vẫn còn hạn chế, đặc biệt là sự thiếu hụt nguồn lao động qua đào tạo. Đây là vấn đề nhận được sự quan tâm của các cơ quan quản lý, doanh nghiệp và các trường đại học. Tuy nhiên, dịch covid - 19 đang tác động không nhỏ đến đội ngũ lao động trong khu vực kinh tế này. Từ sự phân tích đó, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động của ngành du lịch, ví dụ như: nâng cao chất lượng của các cơ sở đào tạo, nâng cao năng lực cho sinh viên, kết nối các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp… để góp phần đưa ngành du lịch Việt Nam phát triển trở thành nền kinh tế mũi nhọn.

Từ khóa: du lịch, nguồn nhân lực, hội nhập kinh tế quốc tế, covid - 19

 

Đặt vấn đề

Du lịch Việt Nam vẫn còn là ngành trẻ, đang có xu hướng phát triển mạnh và mục tiêu là trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia. Từ lợi thế là một trong những quốc gia có nhiều tài nguyên thiên nhiên, văn hóa đa dạng, điều đó tạo thành những thế mạnh cạnh tranh quan trọng của nước ta trên bản đồ du lịch thế giới. Trong những năm gần đây sự phát triển của ngành du lịch đã và đang góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đồng thời bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam. Để tiếp tục phát huy những thành quả của ngành du lịch thì cần phát huy tất cả các nguồn lực của ngành, tiếp cận với những xu thế mới và chuyển mình phù hợp trong bối cảnh tác động của tình hình dịch bệnh hiện nay. Trong đó, phát triển nguồn nhân lực du lịch, đặc biệt là chất lượng cao đang là một hướng đi phù hợp với xu thế của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, chất lượng nguồn lao đông trong ngành du lịch đang tồn tại rất nhiều hạn chế. Thực tế cho thấy, nếu lao động trong ngành du lịch Việt Nam không nhanh chóng chuẩn bị kiến thức và những kỹ năng cần thiết thì có thể sẽ thua ngay trên sân nhà. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đang là vấn đề cấp bách đặt ra cho các cơ sở đào tạo ngành du lịch.

 

  1. Thực trạng về lao động trong ngành du lịch ở Việt Nam hiện nay.
    • 1.1.Nhân lực trong ngành du lịch

    Ngành du lịch là ngành mang tính phi sản xuất vật chất, nó không mang lại sản phẩm vật chất mà thông qua cung cấp dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch. Vì vậy có thể cung cấp dịch vụ chất lượng tốt hay không là tiêu chí để đánh giá trình độ phát triển của ngành du lịch, và nó quyết định bởi tố chất và số lượng của cán bộ nhân viên du lịch. Chính vì vậy, xây dựng đội ngũ lao động trong ngành du lịch có vai trò vô cùng quan trọng với việc phát triển chất lượng nguồn nhân lực du lịch. Có thể phân lao động trong ngành du lịch theo các cấp như sau:

    - Nhân lực tại các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch: Là các lao động trí óc, đòi hỏi có kiến thức tổng hợp về du lịch; có khả năng xây dựng các quy hoạch phát triển du lịch, định hướng phát triển du lịch quốc gia, địa phương; có kỹ năng xây dựng và điều phối các chương trình, sự kiện về du lịch ở quy mô quốc gia, tỉnh, thành phố. Nhóm nhân lực này chiếm số lượng nhỏ nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc phát triển hoạt động du lịch của quốc gia và địa phương.

    - Nhân lực trực tiếp cung ứng và kinh doanh dịch vụ tại các đơn vị kinh doanh du lịch: Trong khách sạn là nhân lực đảm nhận các công việc buồng, bàn, bar, bếp,... Trong kinh doanh lữ hành có nhân lực đảm nhận công tác điều hành tour du lịch, marketing du lịch và hướng dẫn du lịch,...

    - Nhân lực quản lý tại các đơn vị kinh doanh du lịch: Chất lượng dịch vụ du lịch được cung cấp cho khách hàng phụ thuộc nhiều vào quan điểm, tư duy và phương pháp quản lý của nhóm nhân lực quản lý tại các đơn vị kinh doanh về du lịch, tổ chức kinh doanh du lịch như các khách sạn, nhà hàng, công ty lữ hành,…

    - Nhân lực hỗ trợ trong các đơn vị kinh doanh du lịch: Nhóm này bao gồm nhân lực thuộc các phòng như phòng kế hoạch đầu tư; phòng tài chính-kế toán; phòng vật tư thiết bị, phòng tổng hợp; phòng quản lý nhân sự cho đến các nhân viên; nhân viên tạp vụ... Trong các công ty, khách sạn hoặc các đơn vị kinh doanh về du lịch kinh doanh du lịch.

                Có những bộ tiêu chí cụ thể để đánh giá chất lượng của những nhóm nhân lực trong ngành du lịch này. Ví dụ như những tiêu chí về năng lực chuyên môn, kỹ năng quản lý, sử dụng công nghệ thông tin, trình độ ngoại ngữ hay một số kỹ năng mềm khác… Những năng lực đó được thể hiện cụ thể trong quá trình sản xuất và tiêu thụ của ngành này. Tức là quá trình quản lý, phát triển, cung cấp dịch vụ của nhân viên du lịch cùng với quá trình du khách tiêu thụ loại dịch vụ này. Đối tượng khách hàng của ngành du lịch là du khách; họ có thể là những người đến từ nhiều vùng, nhiều quốc gia khác nhau. Vì vậy, động cơ du lịch, yêu cầu và tập quán của họ cũng khác nhau, đòi hỏi nhân viên du lịch, đặc biệt là đội ngũ lao động trực tiếp phải am hiểu sâu rộng và có khả năng thích ứng cao, chịu được áp lực, năng động, thích nghi với sự đa dạng về nhiều môi trường làm việc…

    • 1.2.Thực trạng

Việt Nam là một quốc gia có sự đa dạng về tài nguyên thiên nhiên, khí hậu cũng như các di sản văn hóa, ẩm thực, đường bờ biển dài với nhiều bãi tắm đẹp… tạo nên một bức tranh tổng thể đặc sắc. Những yếu tố nhân tạo như các khu nghỉ dưỡng đẳng cấp quốc tế, khu sinh thái và du lịch tâm linh… đang góp phần tạo nên thế mạnh thu hút đông đảo du khách trong nước và quốc tế. Trong những năm gần đây, du lịch Việt Nam có bước tiến ngoạn mục, được ghi nhận trên bản đồ du lịch thế giới. Theo thống kê của Tổng cục Du lịch Việt Nam, chỉ tính riêng trong năm 2019, ngành Du lịch Việt Nam đón 18 triệu lượt khách quốc tế, tăng 16% so với năm 2018; phục vụ 85 triệu lượt khách nội địa (tăng 6% so với năm 2018). Tổng thu từ khách du lịch ước đạt hơn 720.000 tỉ đồng (tăng trên 16% so với năm 2018). Cũng trong năm 2019, Việt Nam còn nhận được nhiều giải thưởng du lịch toàn cầu như: Điểm đến di sản hàng đầu thế giới, điểm đến golf tốt nhất thế giới 2019, điểm đến hàng đầu châu Á, điểm đến ẩm thực hàng đầu châu Á. Những kết quả đó góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam. Để phát huy những thành tựu trên, ngành du lịch nước ta cần có những bước phát triển đồng bộ phù hợp. Tuy nhiên, yếu tố trung tâm tạo nên sự phát triển là đội ngũ lao động lại đang tồn tại rất nhiều hạn chế cần phải nhìn nhận.

Thứ nhất, lao động trong ngành du lịch đang bị thiếu hụt về số lượng so với yêu cầu thực tế. Tính đến tháng 6/2020, cả nước có khoảng 2,25 triệu lao động trong ngành du lịch. Trong đó, lao động trực tiếp khoảng hơn 750.000 người. Mỗi năm ngành Du lịch cần thêm gần 40.000 lao động nhưng lượng sinh viên, học viên chuyên ngành ra trường chỉ khoảng 15.000 người/năm. Tình trạng này nếu không được cải thiện thì nhân sự sẽ trở thành nút thắt lớn đối với sự phát triển của ngành.

Thứ hai, tỷ lệ lao động trong ngành du lịch qua đào tạo, đào tạo đúng chuyên ngành rất thấp, từ đó dẫn đến sự thiếu hụt nghiêm trọng lao động có trình độ cao. Cụ thể, trong giai đoạn 2015-2019, tỷ lệ lao động có trình độ sau đại học chiếm tỷ lệ 0,37%, tỷ lệ lao động có trình độ đại học khoảng 24%, tỷ lệ lao động có trình độ cao đẳng khoảng 13%, tỷ lệ lao động có trình độ trung cấp khoảng 14%, còn lại là trình độ khác. Sự hạn chế về trình độ của người lao động dẫn tới những hệ quả lớn trong quá trình hoạt động và phát triển.

Có thể thấy, trong công tác quản lý, đội ngũ làm công tác quản lý nhà nước về du lịch của nước ta về trình độ chuyên môn, đa số cán bộ, công chức dù có bằng đại học hoặc sau đại học nhưng thực tế chuyên ngành đào tạo không phải quản lý nhà nước về du lịch mà thường về một lĩnh vực nhất định trong hoạt động phát triển du lịch như:  nhà hàng khách sạn, kinh doanh lữ hành… Ở những đơn vị đào tạo có chuyên ngành quản lý nhà nước, nội dung liên quan tới du lịch thường được đề cập lồng ghép trong môn học quản lý nhà nước về kinh tế. Do đó, tính chuyên sâu về quản lý trong lĩnh vực này sẽ có những hạn chế nhất định. Trong khi đó, những lớp tập huấn công tác quản lý nhà nước về du lịch do các bộ, ngành ở Trung ương tổ chức thường không nhiều, thời gian ngắn, số lượng tham gia hạn chế; còn ở địa phương công tác này lại không được thực hiện. Từ đó, dẫn tới thực trạng tư duy liên ngành, liên vùng trong lĩnh vực du lịch còn hạn chế. Sản phẩm du lịch của nước ta còn mờ nhạt, chưa có sức cạnh tranh cao. Hoạt động của các doanh nghiệp du lịch còn nhiều bất cập…

Thêm vào đó, sự thiếu hụt lao động qua đào tạo dẫn đến thực trạng khi các công ty lữ hành tuyển dụng lao động thì họ thường mất từ 6 đến 12 tháng để đào tạo được đội ngũ lao động lành nghề. Trong khi đó, không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ điều kiện và kinh phí để thực hiện công tác đào tạo đó. Dẫn đến, du lịch Việt Nam chưa tận dụng được hết tiềm năng sẵn có, chưa đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường. Ngành du lịch nước ta không bắt kịp và giảm khả năng cạnh tranh là tất yếu.

Thứ ba, lao động trong nghành du lịch Việt Nam còn hạn chế về nghiệp vụ và kỹ năng. Về cơ bản, đội ngũ lao động trong ngành du lịch của nước ta đang tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của ngành. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải nhìn nhận những tồn tại: lao động Việt Nam giỏi lý thuyết, nhưng kém về năng lực thực hành và ứng dụng công nghệ cao vào quá trình lao động, kém về ngoại ngữ và hạn chế trong việc thích nghi môi trường có áp lực cạnh tranh cao; khả năng làm việc theo nhóm, tính sáng tạo, chuyên nghiệp trong quá trình lao động còn nhiều hạn chế, khả năng giao tiếp, năng lực giải quyết xung đột trong quá trình lao động còn yếu kém;  tinh thần trách nhiệm trong công việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công dân, văn hoá doanh nghiệp, ý thức tuân thủ kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể người lao động chưa cao. Du lịch là ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ nên phải hết sức chú trọng tới vấn đề nghiệp vụ và kỹ năng. Tuy nhiên, có tới 55% lao động trong lĩnh vực này thiếu kỹ năng, nghiệp vụ. Đặc biệt, trong quá trình hội nhập hiện nay, chúng ta không chỉ phải khắc phục về chất lượng của đội ngũ trong nước mà chính đội ngũ đó đang đứng trước sự cạnh tranh khốc liệt từ nguồn lao động của các nước trong khu vực. Chỉ số sức cạnh tranh về nguồn nhân lực và thị trường lao động vẫn còn thấp, xếp hạng 47/140 đạt 4,8 điểm, sụt giảm so với năm 2017, chỉ xếp trên Lào, Campuchia, Bruney trong các nước ASEAN.  năng suất lao động ngành du lịch Việt Nam thuộc hạng thấp nhất trong khu vực, đạt 3.477 USD/năm/người, chưa bằng 1/2 lần so với Thái Lan và chỉ bằng 1/15 so với Singapore. Hay,  khi khảo sát trên các du thuyền quốc tế 5 sao hiện nay, lao động Việt Nam chủ yếu đảm nhận khâu vệ sinh, rửa chén hoặc phục vụ trong bộ phận buồng. Trong khi đó, các bộ phận khác như tiếp tân, phục vụ bàn, các vị trí giám sát… hầu như do lao động các nước như Singapore, Thái Lan, Trung Quốc đảm nhận. Sở dĩ có sự phân công lao động như vậy, bởi lao động của ta thua kém nước bạn nhiều kỹ năng: Trình độ ngoại ngữ, tự tin giao tiếp, các kỹ năng nghề nghiệp không đạt chuẩn quốc tế… Như vậy, từ thực tế cho thấy, tồn tại khoảng cách khá lớn giữa cung và cầu về đào tạo nguồn nhân lực du lịch chuyên nghiệp và chất lượng cao, đặc biệt đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nhanh trong điều kiện cạnh tranh khu vực và quốc tế ngày càng gia tăng của ngành du lịch. Khoảng cách này không chỉ đơn thuần là số lượng mà quan trọng hơn là chất lượng và bài toán năng suất lao động.

Nhìn chung, trước yêu cầu phát triển của ngành du lịch Việt Nam hiện nay, chất lượng lao động trong ngành phải được cải thiện, nâng cao. Tuy nhiên, trong bối cảnh của dịch bệnh covid-19, du lịch là một trong những ngành bị tác động mạnh mẽ nhất. Bài toán đặt ra không chỉ là nâng cao chất lượng của đội ngũ lao động mà còn phải đảm bảo được về mặt số lượng. Lý do, có hàng ngàn lao động trong ngành này đang bị ảnh hưởng hoặc mất việc dẫn tới một số lượng lớn chuyển sang làm những công việc khác, nhất là đội ngũ lao động trực tiếp. Vì vậy, đảm bảo số lượng, chất lượng nguồn lao động, đáp ứng nhu cầu của thị trường cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh của lao động trong ngành du lịch Việt Nam đang là vấn đề cấp thiết, cần có những giải pháp phù hợp để giải quyết vấn đề này.

 

2. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch

2.1. Quan điểm

Cần nâng cao năng lực quảng bá, hợp tác, thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước, đặc biệt từ khu vực tư vào phát triển du lịch, qua đó phát triển nhân lực ngành du lịch. Cán bộ quản lý nhà nước về du lịch có trách nhiệm định hướng nghề nghiệp, dự báo nhu cầu, khuyến khích và thúc đẩy quá trình xã hội hóa đào tạo, phát triển nhân lực ngành du lịch. Đổi mới cơ chế làm việc của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch theo hướng linh hoạt, gắn chặt với thị trường, đối tác bên ngoài để chủ động đáp ứng được các thay đổi, đòi hỏi từ bên ngoài, đồng thời thu hút được các nguồn lực để nâng cao hiệu quả hỗ trợ quá trình phát triển du lịch, nhân lực du lịch tại địa phương.

Gia tăng thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ trong và ngoài nước để giải quyết nhu cầu trước mắt. Trong giai đoạn tới, thị trường lao động trong khu vực ASEAN được mở cửa, lao động trình độ cao trong ngành du lịch có thể dự do di chuyển giữa các quốc gia ASEAN. Vì vậy, cần sớm xây dựng cơ chế, chính sách và xác định nhu cầu, đối tượng để chủ động trong quảng bá, thu hút.

2.2. Một số giải pháp cụ thể

Một là, tiêu chuẩn hóa nhân lực ngành du lịch

Khi cộng đồng kinh tế ASEAN được hình thành, nguồn lao động Việt Nam có cơ hội cạnh tranh, cọ sát để nâng cao trình độ; trong đó có lao động trong ngành du lịch. Các nước ASEAN nói chung hay Việt Nam, việc đào tạo nguồn nhân lực du lịch theo khung trình độ đã được thừa nhận là điều kiện tiên quyết để xây dựng ngành du lịch hội nhập quốc tế. Khi Thỏa thuận về nghề du lịch ASEAN chính thức có hiệu lực, sẽ có nhiều lao động trong khối ASEAN đến Việt Nam làm việc. Nếu lao động trong nước không nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng thực hành thì họ sẽ thua ngay trên chính sân nhà, hậu quả là sẽ nhiều người mất việc làm. Mặt khác, các doanh nghiệp du lịch ASEAN sẽ nhiều cơ hội thu hút lao động có tay nghề của Việt Nam. Điều này cũng có nghĩa là nếu doanh nghiệp du lịch trong nước không đổi mới, không phát triển để giữ chân lao động có tay nghề, thì sẽ mất đi nguồn chất xám lao động có kỹ năng nghề trong nước; chất lượng dịch vụ và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng sẽ bị suy giảm.

Nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực có chất lượng cho ngành Du lịch tại Việt Nam, bộ Tiêu chuẩn Kỹ năng nghề Du lịch Việt Nam (VTOS) được sửa đổi phù hợp với bối cảnh mới. Bộ tiêu chuẩn VTOS mới được phát triển mở rộng bao gồm cả các lĩnh vực được xác định là quan trọng đối với Việt Nam, ví dụ như thuyết minh du lịch, phục vụ trên tàu thủy du lịch và vận hành cơ sở lưu trú nhỏ, cũng như mở rộng thành 5 bậc nghề từ nhân viên tập sự cho tới quản lý cấp cao. Toàn bộ các tiêu chuẩn này giúp người lao động, người sử dụng lao động, giáo viên và học sinh các trường du lịch nghiên cứu, áp dụng và thực hiện theo tiêu chuẩn VTOS nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch cũng như hiệu quả đào tạo nghề du lịch một cách thống nhất. Tiêu chuẩn nghề du lịch Việt Nam sửa đổi ngoài việc kế thừa các nội dung từ phiên bản trước đã được phát triển phù hợp với các quy định của Việt Nam cũng như được chuẩn hóa, tương thích với các tiêu chuẩn nghề quốc tế, Tiêu chuẩn ASEAN. Tiêu chuẩn nghề du lịch Việt Nam bản mới sẽ góp phần nâng cao chất lượng của ngành du lịch thông qua việc triển khai thực hiện, định hướng công tác đào tạo và hội nhập khu vực.

Từ việc áp dụng các tiêu chuẩn cụ thể trong ngành du lịch, công tác giáo dục và đào tạo trong lĩnh vực này sẽ có định hướng cụ thể. Lao động sau khi được đào tạo sẽ có khả năng làm việc hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của thị trường cũng như đảm bảo sự cạnh tranh với lao động của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới.

Hai là, đa dạng các hình thức đào tạo

Thực hiện Nghị quyết số 103/NQ-CP ngày 06/10/2017 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị khoá XII về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tại Thông báo kết luận số 469/TB-VPCP ngày 06/10/2017 của Văn phòng Chính phủ về tình hình đào tạo nhân lực du lịch, theo đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Công văn số 4929/BGDĐT-GDĐH ngày 20/10/2017 hướng dẫn cơ chế đặc thù đào tạo nhân lực du lịch trình độ đại học giai đoạn 2017-2020 theo hướng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thị trường lao động và hội nhập quốc tế. Trong đó nhấn mạnh sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ sở giáo dục đại học với doanh nghiệp trong đào tạo là điều kiện bắt buộc để được thực hiện cơ chế đặc thù này.

Về chương trình, nội dung, hình thức đào tạo: Các trường đại học, cao đẳng cần nghiên cứu xây dựng giáo trình dựa trên tiêu chuẩn quốc tế về đào tạo du lịch có sự phù hợp với yêu cầu tại Việt Nam. Phải điều chỉnh chương trình và các hình thức đào tạo theo hướng mở, dễ dàng chuyển đổi, liên thông; bao gồm các học phần cốt lõi và các học phần tự chọn. Các học phần cốt lõi nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng nền tảng của ngành đào tạo. Các học phần tự chọn theo hướng chuyên sâu về các lĩnh vực du lịch theo vùng miền, khu vực địa lý, loại hình du lịch... Tăng thời gian đào tạo thực hành, thực tập tại doanh nghiệp. Cơ sở đào tạo tự chủ lựa chọn doanh nghiệp đối tác; chịu trách nhiệm trong việc kiểm tra điều kiện đảm bảo chất lượng và năng lực tham gia đào tạo của doanh nghiệp đối tác trong quá trình phối hợp đào tạo và tổ chức cho sinh viên thực hành, thực tập.

Về cơ chế, chính sách ưu tiên đào tạo nhân lực du lịch. Cần có sự khuyến khích thực hiện hình thức đào tạo văn bằng thứ hai ngành du lịch; khuyến khích các cơ sở đào tạo linh hoạt mở ngành đào tạo nhân lực du lịch theo nhu cầu của thị trường lao động và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở tỉ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp, phân tích mức độ đáp ứng yêu cầu công việc của sinh viên tốt nghiệp nhóm ngành du lịch, các cơ sở đào tạo xác định chỉ tiêu tuyển sinh, điều chỉnh chương trình đào tạo phù hợp với thị trường lao động ngành du lịch. Khuyến khích sinh viên đã tốt nghiệp các ngành khác được chuyển sang học văn bằng thứ hai các ngành du lịch tại các cơ sở đào tạo du lịch. Khuyến khích chuyên gia, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý… có kinh nghiệm hoạt động nghề nghiệp của doanh nghiệp tham gia đào tạo nhân lực du lịch, đặc biệt là giảng dạy, hướng dẫn các nội dung liên quan đến các kỹ năng đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp. Có chính sách thu hút các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài, chuyên gia quốc tế về du lịch tham gia công tác đào tạo ở các cơ sở đào tạo đại học.

Về hợp tác giữa cơ sở đào tạo đại học với doanh nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp. Kết nối "ba nhà": Nhà trường, nhà doanh nghiệp và Nhà nước - cơ quan quản lý nhà nước về du lịch là một yêu cầu tất yếu trong quá trình nâng cao chất lượng lao động trong ngành du lịch nước ta hiện nay. Các cơ sở có đào tạo ngành du lịch phải gắn kết với hiệp hội nghề nghiệp, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch để dự báo nhu cầu lao động, xây dựng chuẩn đầu ra và đào tạo sinh viên có kỹ năng đáp ứng yêu cầu ngành nghề: Thoả thuận doanh nghiệp là nơi thực hành, thực tập của cơ sở đào tạo; sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị, phần mềm… của doanh nghiệp để đào tạo thực hành. Doanh nghiệp cử chuyên gia tham gia giảng dạy, hướng dẫn thực hành, thực tập, đánh giá kết quả học tập của sinh viên. Phối hợp dự báo nhu cầu nhân lực của các ngành du lịch về số lượng, yêu cầu chất lượng; phối hợp đầu tư cơ sở vật chất theo hướng đẩy mạnh xã hội hóa, tăng cường hợp tác công tư, chú trọng xây dựng các cơ sở thực hành, thực tập chất lượng cao, theo chuẩn mực khu vực và quốc tế phục vụ đào tạo nhân lực du lịch.

Về hoạt động hỗ trợ đào tạo nhân lực du lịch. Cần tăng cường tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn nhằm bổ sung, cập nhật kiến thức, kỹ năng, tăng cơ hội tìm việc làm cho sinh viên ngành du lịch đã tốt nghiệp. Thống kê tỉ lệ có việc làm của sinh viên sau 12 tháng tốt nghiệp các ngành du lịch và công khai trên trang thông tin điện tử của các cơ sở đào tạo. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực du lịch; khuyến khích các cơ sở đào tạo liên kết với các trường đại học của các nước phát triển để đào tạo các ngành du lịch.

Thứ ba, tăng cường đào tạo về ngoại ngữ, tin học đáp ứng cho môi trường mới, kinh doanh online hậu Covid-19.

Đây là yêu cầu tất yếu trong thời đại công nghệ số hiện nay. Ngoại ngữ là một trong những tiêu chí hàng đầu đối với lao động trong ngành du lịch. Thêm vào đó, du khách quốc tế vào Việt Nam đến từ rất nhiều nước khác nhau, trong đó có nhiều nước không sử dụng tiếng Anh. Vì vậy, để giảm thiểu tình trạng các doanh nghiệp lữ hành phải lựa chọn giải pháp cho du khách nghe thuyết trình bằng tiếng Anh hoặc dùng máy phiên dịch với chi phí đắt đỏ, hay phải thuê hướng dẫn viên du lịch làm việc “chui” với chi phí đắt đỏ thì việc đào tạo thêm các thứ tiếng hiếm là cần thiết. Một số ngoại ngữ hiếm như: Tây Ban Nha, Hàn Quốc, Pháp, Đức, Indonesia... Sinh viên được tiếp cận nhiều ngôn ngữ trong nhà trường, khi ra trường, các em sẽ không còn bỡ ngỡ với các ngôn ngữ hiếm.

Bối cảnh dịch bệnh hiện nay tác động sâu sắc đến ngành du lịch, hàng loạt các doanh nghiệp phải dừng hoạt động, hàng nghìn lao động tạm thời không có việc làm. Tuy nhiên, bối cảnh này cũng là cơ hội để ngành du lịch nhìn nhận lại những vấn đề còn tồn tại, đưa ra những định hướng, xây dựng những sản phẩm phù hợp trong bối cảnh mới. Đối với người lao động, đây cũng là cơ hội để tích lũy thêm năng lực chuyên môn, các kỹ năng cần thiết, áp dụng công nghệ thông tin… Đặc biệt, với xu thế “du lịch thông minh” hiện nay, đang tạo ra một hệ thông tiêu dùng mới. Những khách du lịch này thích đi du lịch trong sự đam mê công nghệ mới, điều này tạo nên một bối cảnh mới, trong đó các phương tiện truyền thông xã hội, các ứng dụng công nghệ, blog, mạng xã hội và thời gian du khách dành cho nó trong suốt chuyến đi là một phần không thể thiếu trong trải nghiệm của mỗi du khách. Nhận thức được sự thay đổi này, ngành Công nghiệp du lịch cũng đã có những điều chỉnh trong mô hình kinh doanh và cung cấp sản phẩm của mình để thu hút đối tượng khách hàng, đồng thời đạt được mục tiêu kinh doanh. Đặc biệt, với sự ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 trong thời gian đầu năm 2020, với những dự đoán về xu hướng trong tiêu dùng, thương mại và xu thế phát triển cùng sự xuất hiện các ngành nghề kinh doanh trực tuyến mới dựa trên kinh tế số, theo nguyên tắc từ xa, hạn chế tiếp xúc sẽ làm cho ngành Công nghiệp du lịch có những chuyển biến sâu sắc. Tất cả những yếu tố đó giúp ngành du lịch, những người lao động sẽ sẵn sàng tạo nên những bước phát triển mới cho du lịch Việt Nam, khẳng định vị thế của “ngành công nghiệp không khói” trong nền kinh tế quốc dân.

Kết luận

Nguồn lực con người luôn là yếu tố quyết định đến sự phát triển của tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Tuy nhiên, công tác đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực còn gặp nhiều hạn chế. Đó cũng là thực trạng của nhân lực trong ngành du lịch ở nước ta hiện nay. Trước bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhân lực ngành Du lịch có vai trò quyết định không chỉ cho riêng sự phát triển du lịch mà còn góp phần không nhỏ vào việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiều năm qua, ngành Du lịch đã có những cố gắng huy động cộng đồng, các thành phần kinh tế và sự hỗ trợ của quốc tế cho phát triển nhân lực. Công tác phát triển nhân lực ngành Du lịch mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng vẫn còn nhiều bất cập cần giải quyết. Những hạn chế yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là đến nay ngành Du lịch vẫn chưa có chương trình, kế hoạch dài hạn về phát triển nhân lực để định hướng đúng, có hệ thống và đáp ứng yêu cầu đặt ra. Vì vậy, việc phát triển nhân lực ngành Du lịch để đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch nhanh và bền vững, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp tích cực và hiệu quả hơn vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức của đất nước là một việc làm cần thiết, xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn. Với những giải pháp đồng bộ được thực hiện, ngành du lịch sẽ có những chiến lược phát triển phù hợp để phát triển, khẳng định vị thế của du lịch Việt Nam trên bản đồ du lịch thế giới.

           

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Chính phủ (2020), Quyết định số 147/QĐ-TTg ngày 22/01/2020, Phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030.
  2. Phạm Thị Thùy Linh (2020), Du lịch thông minh - Xu hướng phát triển tất yếu của ngành Du lịch Việt Nam, Tạp chí Công Thương, số 7 tháng 4 năm 2020.
  3. Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch (2019), “Xu hướng phát triển của du lịch thế giới và tác động đối với du lịch Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội.
  4. https://vietnamtourism.gov.vn/